Vì sao hydroxychloroquine lại được nghiên cứu trong điều trị COVID-19?

Nhiệm vụ trước mắt của các nhà khoa học là tìm ra các loại thuốc an toàn và hiệu quả để điều trị COVID-19. Có nhiều thuốc được quan tâm, trong đó có chloroquine và hydroxychloroquine…

Bệnh do virus SARS-CoV-2 gây ra được đặt tên COVID-19 đã càn quét Trung Quốc, sau đó lan rộng ra hơn 200 nước và lãnh thổ trên toàn thế giới. Các triệu chứng của nhiễm bệnh COVID-19 chủ yếu là sốt, đau họng, ho, tức ngực, khó thở, nặng hơn nữa có thể xuất hiện các triệu chứng suy hô hấp cấp tính, shock, suy đa tạng và nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể tử vong.

Thời gian trung bình xuất hiện hội chứng suy hô hấp cấp tính từ lúc có triệu chứng đầu tiên là khoảng 8 ngày (6-12 ngày). Đây là hội chứng nặng và xảy ra khá nhiều ở các bệnh nhân COVID-19 nhập viện cần vào phòng hồi sức cấp cứu. Đây là do hiện tượng giải phóng các cytokines quá mức hay còn gọi là “cơn bão cytokines”. Các cytokines tiền viêm này gây tổn thương các tế bào của các mô, cơ quan trong cơ thể dẫn đến tổn thương và suy đa tạng.

Chloroquine và hydroxychloroquine đã giúp hàng triệu triệu người trên thế giới chống lại căn bệnh nhiệt đới là sốt rét. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II, hàng triệu binh sĩ được sử dụng thuốc này để dự phòng sốt rét. Các bác sĩ nhận thấy một điều bất ngờ, khi dùng thuốc này, những bệnh nhân đau khớp, ban đỏ da và các bệnh tự miễn, triệu chứng được cải thiện rất rõ ràng. Ngay lập tức, nhiều thử nghiệm lâm sàng tập trung vào vai trò miễn dịch của các thuốc kháng sốt rét này và kết quả thu được đã chứng minh vai trò của thuốc đối với nhóm bệnh nói trên. Vì dung nạp tốt, rẻ tiền và tính chất điều hòa miễn dịch, các thuốc chống sốt rét (chloroquine, hydroxychloroquine) được sử dụng rộng rãi trong các bệnh tự miễn như Lupus ban đỏ hệ thống, xơ cứng bì, viêm đa cơ, viêm khớp dạng thấp, các bệnh da tự miễn khác cũng như một số tình trạng nhiễm trùng nặng hoặc một số dạng ung thư.

Trong quá khứ, chloroquine đã được chứng minh có hiệu quả ức chế quá trình nhân lên của virus, đặc biệt là các Coronavirus. Điều này đã được chứng minh trong dịch SARS-2002 và MERS-2011. Chính vì vậy, cuối năm 2019, khi dịch COVID-19 lan rộng ở Vũ Hán, các bác sĩ ở đây đã tiến hành các nghiên cứu về vai trò của chloroquine/hydroxychloroquine đối với bệnh nhân COVID-19 và thu được kết quả khả quan, thuốc dung nạp tốt với người bệnh. Các bệnh nhân sử dụng chloroquine cho thấy giảm sốt, cải thiện nhanh hình ảnh trên phim chụp phổi cắt lớp, tiến triển bệnh chậm hơn. Do vậy, Hội đồng chăm sóc sức khỏe quốc gia của Trung Quốc đã đồng ý sử dụng chloroquine để điều trị COVID-19 cho các bệnh nhân ở Vũ Hán.

Mặc dù cấu trúc tương tự nhau, cơ chế tác dụng cũng giống nhau, nhưng do tác dụng phụ của chloroquine gấp nhiều lần so với hydroxychloroquine, nên các nhà khoa học đã tập trung vào vai trò của hydroxychloroquine đối với COVID-19.

Hydroxychloroquine (Plaquenil, HCQ) là thuốc có vai trò điều hòa miễn dịch, ngăn ngừa đợt viêm cấp và tổn thương cơ quan ở bệnh nhân mắc bệnh tự miễn hơn là thuốc ức chế miễn dịch, chính vì vậy, thuốc không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội. Đặc biệt, hydroxychloroquine còn có vai trò ngăn ngừa quá trình trình diện các tự kháng nguyên, giảm hoạt hóa và biệt hóa lympho T, giảm các dấu ấn bề mặt của các tế bào này, dẫn đến giảm sản xuất các cytokines từ lympho T và lympho B. Hơn thế nữa, hydroxychloroquine có vai trò ức chế gắn receptor và ly giải màng tế bào để gạt bỏ hai điều kiện tiên quyết cho virus thâm nhập vào tế bào. Sự thay đổi pH nội bào do thuốc này cũng góp phần ức chế sự nhân lên của virus. Như vậy, hydroxychloroquine có hiệu quả chống lại virus trước và sau khi nhiễm làm tăng vai trò dự phòng và điều trị COVID-19. Tuy nhiên, vẫn rất cần những nghiên cứu lâm sàng đầy đủ để chứng minh giả thuyết này.

Thuốc hấp thu tốt bằng đường uống. Các triệu chứng đường tiêu hóa như nôn buồn nôn, là các tác dụng phụ hay gặp nhất. Nếu sử dụng lâu ngày, bệnh nhân nên đi khám mắt, khám tim mạch định kỳ để loại trừ các bệnh ở võng mạc, bệnh cơ tim. Người già tăng nguy cơ nhiễm độc do thuốc hơn. Các bác sĩ miễn dịch dị ứng thường sử dụng thuốc này ngoài việc kiểm soát các triệu chứng bệnh tự miễn còn để ngăn ngừa sự phát triển block tim bẩm sinh, đặc biệt ở mẹ Lupus mang thai. Đại dịch toàn cầu do SARS-CoV-2 đã đặt rất nhiều phụ nữ mang thai trước nguy cơ nhiễm bệnh. Hydroxychloroquine sẽ được khuyến cáo dùng cho các bệnh nhân này hơn chloroquine.

Nguồn: suckhoedoisong